Sự nghiệp Hải Triều

Sách của Hải Triều viết không nhiều, trước khi mất ông chỉ có xuất bản có một số cuốn: Duy tâm hay duy vật (1936), Văn sĩ và xã hội (1937), Chủ nghĩa Mac xít phổ thông (1938). Tuy nhiên đây lại là một trong những tác phẩm đầu tiên trong lịch sử xuất bản Việt Nam trực tiếp và gián tiếp tuyên truyền phổ biến chủ nghĩa Marx đến công chúng. Sau này khi ông mất, những bài báo, bài viết của ông được sưu tầm và biên soạn, xuất bản trong các cuốn sách Về văn học và nghệ thuật (1965 - Hồng Chương biên soạn), Hải Triều - tác phẩm (1987), Hải Triều toàn tập (2 tập) (1996).

Hải Triều có một kiến thức khá phong phú do tìm hiểu và đọc nhiều sách, báo, tiểu thuyết, lý luận của Marx, Engels, Bukharin, Henri Barbusse, Maxim Gorki, André Gide, Tolstoy, Quách Mạt Nhược... Trong những bài viết của mình, ông thường đưa những khái niệm của Marx đồng thời trích dẫn những nhà văn, nhà triết học lớn. Bài viết của ông thường được trình bày đơn giản, dễ hiểu, không cầu kì, hoa mĩ, đôi khi hài hước, châm biếm.

Khi giữ bút danh Nam Xích Tử, ông đã viết các bài báo Cuộc chiến tranh thế giới sau này, Phê bình chủ nghĩa Tam Dân... và dịch Tư bản của Karl Marx trên báo Kỳ lân và Thanh niên Hồng ký. Ông được coi là người người đầu tiên ở Việt Nam phê bình chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn [1]

Một trong những cuộc tranh luận nổi tiếng của Hải Triều là cuộc tranh luận của Phan Khôi về chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa duy vậtchế độ phong kiến. Trong những bài viết của mình phản bác lại ý kiến của Phan Khôi như "Ông Phan Khôi không phải là một học giả duy vật"[2], "Ông Phan Khôi là một học giả duy tâm"[3]..., Hải Triều một mặt đánh đổ lập luận của Phan Khôi, mặt khác khéo léo đưa vào những tư tưởng và khái niệm của Marx. Những bài viết này đều được tập hợp trong cuốn sách Duy tâm hay là duy vật xuất bản năm 1936 do Phan Văn Hùm viết lời tựa. Trong một bài viết khác, Hải Triều cũng phản bác lại ý kiến của bậc tiền bối Phan Bội Châu về ý nghĩa của chữ văn học [4].

Cuộc tranh luận Nghệ thuật vị nghệ thuật hay Nghệ thuật vị nhân sinh là một trong những cuộc tranh luận lớn nhất và kéo dài nhất (1935-1939) vào thập niên 1930. Hải Triều được coi là người châm lửa cho cuộc "bút chiến" này khi viết bài "Nghệ thuật vị nghệ thuật hay Nghệ thuật vị nhân sinh" [5] phản bác lại bài "Hai cái quan niệm về văn học" của Thiếu Sơn[6]. Sau đó, ông lại tiếp tục phản bác ý kiến của Hoài Thanh và Thiếu Sơn về quyển Kép Tư Bền của Nguyễn Công Hoan, ông đánh giá cao giá trị nội dung của cuốn truyện, "đã mở một kỷ nguyên mới cho cái tư triều văn nghệ tả thiệt và xã hội ở nước ta."[7]. Khởi đầu từ cuộc tranh luận về Kép Tư Bền, cuộc tranh luận lại mở rộng ra thành tranh luận giữa hai phái "Nghệ thuật vị nghệ thuật" và "Nghệ thuật vị nhân sinh". Hải Triều là người đứng đầu của phái "Nghệ thuật vị nhân sinh", ông đề cao giá trị nhân sinh của những tác phẩm như Kép Tư Bền, hay Lầm than của Lan Khai mà ông gọi là những tác phẩm "tả thực xã hội", đồng thời kịch liệt phê phán quan niệm "Nghệ thuật vị nghệ thuật", ông cho rằng nghệ thuật là vì nhân sinh và không thể đặt ra ngoài nhân sinh và xã hội, đặt nghệ thuật ra ngoài nhân sinh là "nguỵ biên", "phi lý" và "gian trá"[5]. Ông cũng đả kích những sáng tác lãng mạn xa rời thực tế, gọi là thứ văn "thần bí, dâm ô", "phản động của giai cấp phú hào"[8]. Trong những bài viết này, ông còn kêu gọi những nhà văn cùng quan điểm: "Con đường của chúng ta đã vạch ra, chúng ta cứ quả quyết mà tiến tới. Sau lưng chúng ta đã sẵn có một nhân loại mới mẻ mạnh bạo với những ý tưởng, những tình cảm lớn lao hơn sẽ làm hậu thuẫn cho chúng ta."[9] Những ý kiến này lại xuất hiện trong cuốn Văn sĩ và xã hội (1937), trong cuốn sách này Hải Triều tôn vinh 3 nhà văn cách mạng Maxim Gorki, Romain RollandHenri Barbusse.

Cuốn sách Chủ nghĩa Mác xít phổ thông, Hải Triều bắt đầu viết năm 1937, xuất bản năm 1938 là tài liệu công khai hiếm hoi về chủ nghĩa Marx được xuất bản. Cuốn sách được tái bản năm 1946, được "sử dụng làm cơ sở cho các cuộc hội thảo, các buổi sinh hoạt của chi hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác".[10]

Ngoài lý luận và phê bình văn học, ông còn viết bình luận thời sự, chính trị, tiêu biểu như những bài như Ai đốt nghị viện Đức, Hội nghị kinh tế thế giới, Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương, Mười chín năm kiến thiết ở Liên Bang Xô-viết...

Sau Cách mạng tháng 8, ông cũng viết nhiều bài phê bình, lý luận nhưng hoạt động chủ yếu là đảm trách nhiệm vụ tuyên truyền, văn hoá, trí thức vận.